Miến dong Cao Bằng khẳng định thương hiệu

Đăng ngày:

Kích cầu du lịch từ các tour, tuyến mới cho đồng bào dân tộc và miền núi Cao Bằng

Cao Bằng: Tạm giữ 300 sản phẩm giày, dép giả nhãn hiệu

Về thăm "làng đá nở hoa" nơi biên cương Cao Bằng

Sản phẩm ‘có tiếng’ và ‘có miếng’

Theo ông Trần Đức Hiếu - Giám đốc Hợp tác xã Nông sản Tân Việt Á, lô hàng được xuất khẩu thông qua một công ty đối tác của hợp tác xã ở thành phố Hồ Chí Minh. Theo hợp đồng đã ký kết, hợp tác xã sẽ cung cấp 4 tấn miến dong/tháng cho đối tác để xuất khẩu sang thị trường Mỹ.

Miến của Cao Bằng nổi danh, được người tiêu dùng ưa chuộng. Ảnh minh họa

Cũng theo Giám đốc Hợp tác xã Nông sản Tân Việt Á, sản phẩm miến dong Tân Việt Á được xuất khẩu sang thị trường Mỹ là bước phát triển lớn của hợp tác xã, minh chứng cho những nỗ lực của đơn vị trong quản lý, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường đã đạt kết quả tốt.

Không chỉ miến dong Tân Việt Á, Cao Bằng sở hữu nhiều thương hiệu miến dong nổi tiếng và được ưa chuộng trên thị trường, như miến Tĩnh Túc; miến dong Án Lại; miến dong Phja Đén… Sản phẩm đặc trưng này cũng mang lại đời sống ấm no cho người dân, nhất là đồng bào

dân tộc thiểu số

trên địa bàn tỉnh.

Xã Nguyễn Huệ, huyện Hoà An là một điển hình, có 90,7 ha diện tích trồng cây dong riềng, gần 300 hộ sản xuất, với thương hiệu Án Lại, miến là sản phẩm mang lại thu nhập lớn và là nguồn thu chính cho bà con địa phương.

Để tạo uy tín cũng như phát triển theo hướng hàng hóa cho sản phẩm này, UBND huyện Hòa An đã đề xuất và được UBND tỉnh phê duyệt dự án "Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận miến dong Án Lại" cho sản phẩm miến dong của huyện Hòa An. Nhờ đó, miến Án Lại được đầu tư bài bản bao bì, mẫu mã, thương hiệu.

Xã Thành Công, huyện Nguyên Bình nổi tiếng với miến dong Phja Đén. Những năm qua, diện tích trồng dong riềng của xã dao động từ 90 - 100ha, địa phương đã đẩy mạnh sản xuất miến dong theo chuỗi sản xuất.

Theo anh Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Hợp tác xã dong riềng Trung Hiếu, việc đẩy mạnh liên kết trong sản xuất theo chuỗi đã giúp sản phẩm miến dong của Cao Bằng được thị trường biết đến, giúp nhiều nông dân thoát nghèo. Hiện, sản lượng miến trung bình của hợp tác xã hàng năm từ khoảng 15 - 18 tấn, giá bán dao động từ 85.000 - 90.000 đồng/kg; doanh thu trung bình khoảng trên 1 tỷ đồng/năm, giải quyết được việc làm cho khoảng 5 - 10 lao động thường xuyên.

Cao Bằng triển khai nhiều chính sách quảng bá cho sản phẩm miến. Ảnh minh họa

Hiện sản phẩm của hợp tác xã ngoài tiêu thụ trong tỉnh còn vươn ra các tỉnh, thành phố khác như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và khu vực Tây Nguyên…

Kết quả của rất nhiều nỗ lực

Sức lan tỏa mạnh mẽ cũng như độ nhận diện cao của sản phẩm miến dong là kết quả của rất nhiều nỗ lực từ các cấp chính quyền của Cao Bằng trong việc phát triển cây trồng và loại sản phẩm này. Tỉnh đã đưa miến dong vào danh sách những sản phẩm ưu tiên hỗ trợ phát triển, đồng thời giao cho Trung tâm Khuyến công và xúc tiến thương mại tỉnh nghiên cứu, xét duyệt, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu cho miến dong Cao Bằng.

Nhờ đó, nhiều người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp đã được hỗ trợ máy móc, công nghệ sản xuất miến, hướng dẫn xây dựng nhãn hiệu hàng hóa… Tỉnh đang khuyến khích thương nhân, doanh nghiệp đầu mối thu gom, tiêu thụ sản phẩm cho người dân.

Tuy nhiên, với đặc thù là tỉnh miền núi, năng lực sản xuất của các cơ sở hạn chế, có ít doanh nghiệp, hợp tác xã có quy mô đủ lớn để đối ứng và thụ hưởng chính sách hỗ trợ.

Cây dong riềng và sản phẩm miến mang lại nguồn thu lớn cho bà con dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Ảnh minh họa

Từ kinh nghiệm nghiên cứu hiện trạng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm miến dong theo chuỗi giá trị tại

Cao Bằng, TS. Dương Thị Tình - Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên - cho rằng, Cao Bằng đã ban hành nhiều chính sách phù hợp cho phát triển sản phẩm miến dong. Trong đó, có thể kể tới công tác xây dựng nhãn hiệu tập thể; hỗ trợ các dự án vùng nguyên liệu mà nhà đầu tư khi xây dựng có hợp đồng liên kết sản xuất nguyên liệu ổn định với người dân; dự án chế biến nông sản sử dụng nguyên liệu địa phương; sử dụng nhiều lao động địa phương. Đồng thời, hỗ trợ xây dựng, hoàn thiện và chuyển giao quy trình công nghệ trồng và chăm sóc dong riềng theo tiêu chuẩn VietGAP định hướng hữu hay ứng dụng chuyển giao công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm miến dong…

Tuy nhiên, để sản phẩm miến dong phát triển theo hướng hàng hóa, khẳng định mẽ hơn nữa thương hiệu, TS. Dương Thị Tình nhận định, việc phát triển miến dong theo chuỗi giá trị là rất cần thiết.

Để làm được điều này, cần tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp đã có của tỉnh, như: Đa dạng hóa các nguồn tài chính hỗ trợ sản xuất sản phẩm nông nghiệp; hoàn thiện hệ thống hạ tầng cơ sở; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển chuỗi giá trị nông sản.

Cùng đó, thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển sản xuất dong nguyên liệu; tăng cường chế biến tinh bột, miến dong; hoàn thiện chuỗi giá trị cho sản phẩm miến dong; tăng cường các hoạt động xúc tiến tiêu thụ sản phẩm; tổ chức và liên kết sản xuất và giải pháp bảo vệ môi trường.

Những năm qua, ngành Công Thương đã triển khai nhiều hoạt động quảng bá, kết nối tiêu thụ sản phẩm miến cho bà con trên địa bàn tỉnh. Từ đó, mở rộng đầu ra cho sản phẩm tiềm năng này.